Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010

ĐÀ LẠT: THÀNH PHỐ HOA NỞ BỐN MÙA



Mới viếng Ðà Lạt, du khách sẽ ngạc nhiên không phải vì cái khung cảnh của một thành phố Âu Châu nằm lọt trong lòng một vùng rừng núi xích đạo nước ta, mà chính là cái cảm giác khoan khoái, lâng lâng như vừa bước vào một căn phòng gắn máy lạnh.
Xung quanh Ðà Lạt là rừng thông hai lá và thông ba lá. Tiến vào rừng sâu, người ta còn tìm thấy một vài loại cây xứ lạnh khác như tùng, tắc bá diệp, bạch đàn.

Sống ở Ðà Lạt nhiều năm, tôi nghiệm ra rằng mỗi năm ở đây có hai mùa rõ rệt. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10. Lúc đó, ra đường chỉ cần khoác một chiếc áo len mỏng nhẹ. Nhưng nếu phải đi bộ lên dốc xuống đồi thì chắc chắn cảm thấy nực vì mồ hôi. Mùa lạnh từ tháng 11 trở đi, khí hậu lạnh dần cho đến hết tháng 12 là cực điểm. Mùa Giáng sinh có những đêm ở phi trường Cam Ly nhiệt độ xuống đến số 0. Ban ngày, bầu trời trong vắt, nắng hanh vàng, tuy nhiên nếu ra khỏi nhà phải mặc đồ đủ ấm, nếu không sẽ bị cảm lạnh. Trời lạnh đi bộ là một cái thú, cũng là một cách nạp lại năng lượng cho cơ thể.

Trước cửa nhà, nhìn qua bên kia đồi, mấy biệt thự mái ngói đỏ au. Theo một con đường đất đỏ ngoằn ngoèo đẫm ướt sương đêm là hình ảnh quen thuộc mỗi buổi sớm mai. Buổi sáng hay chiều đều có cái thú riêng của nó mà những người ở Ðà Lạt lâu năm mới tìm thấy riêng cho mình. Mùa mưa, vừa thức giấc, sương mù còn tỏa trên các thung lũng một màu trắng đục. Thấp thoáng xa xa, mấy cái nhà sàn ẩn hiện như trong bức tranh thủy mạc. Trên mặt hồ Xuân Hương là một màn mỏng lờ mờ cho đến khi nắng lên, sương tan dần.

Những buổi sáng mù sương là những đề tài cho các nhà săn ảnh mỹ thuật. Ở đây sương mỏng và hiền, không phải sương muối như nhiều nơi khí hậu khắc nghiệt khác. Những người làm nghề trồng tỉa cho biết lớp sương mù buổi sớm rất cần thiết cho cây trà, mà ở Cầu Ðất, trên đường từ Trạm Hành đến Ðơn Dương, nhiều đồn điền trà dầm dìa những giọt sương sớm, lắng đọng trên cành lá. Cầu Ðất cũng có nhà máy pha chế trà của ngưới Pháp.

Có bạn ở Ðà Lạt lâu năm nói với tôi rằng: "Một ngày Ðà Lạt có đủ bốn mùa: sáng sớm trời lạnh, nhiệt độ còn thấp, nhiều sương phủ mờ trên thung lũng hay mặt hồ. Ðó là mùa xuân, cỏ hoa vươn mạnh, sau một đêm dầm dìa những giọt sương. Buổi trưa, mặt trời lên cao, nóng ấm, cũng là lúc giống mùa hè. Vào buổi xế, mặt trời Ðà Lạt lặn sớm vì nhiều đồi núi, gió hiu hiu se lạnh, ta có cảm giác như trời vào thu. Về đêm, nhiệt độ xuống thấp nhất vào lúc nửa đêm, lạnh ngắt, đó là mùa đông." Ban đêm nhà nào cũng kéo lớp cửa kính lên để giữ nhiệt độ trong nhà được ấm. Hàng năm, trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam làm lễ mãn khóa vào tuần thứ ba của tháng 12 trong không khí giá buốt. Khách đến dự lễ truy điệu vào ban đêm, súng sính trong những bộ dạ phục mùa đông đắt tiền, chẳng khác gì ở những quốc gia ôn đới.

Nhưng cái hấp dẫn khác của Ðà Lạt có lẽ là xứ hoa nở bốn mùa. Mùa xuân, nhiều loài hoa nở rộ, khoe hương sắc. Hoa mai nở quanh năm. Có nhiều loại hoa mai như mai đỏ, mai tứ quý, mai hồng, và nhất chi mai. Vào tháng chạp có hoa đào báo hiệu ngày Tết. Hoa đào thuộc loại hoa quý tộc, mầu hồng đậm nhạt. Những gia đình trung lưu ở Ðà Lạt, ngày tết thường chưng một bình hoa có cành đào trong phòng khách. Còn hoa anh đào, một món quà tặng từ xứ Phù Tang, được trồng ven bờ hồ Xuân Hương. Hoa đào nở rộ vào hai tuần lễ cuối tháng 12. Hoa đào phơn phớt trắng hồng như má thiếu nữ khuê các. Con đường từ trước khách sạn Palace ra đến cầu Ông Ðạo là cả một rừng hoa anh đào rực rỡ, tô điểm cho thành phố Ðà Lạt vào xuân.

Ðà Lạt đẹp một cách kiêu kỳ lãng mạn. Nhiều thi nhân, văn sĩ về đây không tiếc lời ca ngợi Ðà Lạt. Mùa này, khi nắng lên, thị dân và du khách đổ ra đường, rồi đến trưa mọi người đều đổ về công trường chợ Hoà Bình. Chợ Hòa Bình tràn ngập giai nhân với muôn màu áo, hãnh diện khoác tay những chàng trai kiêu hùng trong bộ quân phục với chiếc alpha màu đỏ hay đen.

có những buổi sáng, khi làn sương mù còn bao phủ trên ấp ánh sáng, tôi thường theo vợ con đi chợ. Trong khi nhà tôi dẫn con đi mua sắm, tôi thường vào cà phê Tùng, nhâm nhi tách cà phê nóng bốc khói cho ấm lòng. Ở đây cũng là chỗ hẹn hò của các văn nhân, thi sĩ, nhạc sĩ từ Sài Gòn tới. Họ thường trầm ngâm, thả hồn qua khói thuốc để tìm ý thơ. Còn nhà Thủy Tạ nằm trên một doi đất trước khách sạn Palace, là chỗ hẹn hò của các tình nhân, vì cái không khí tĩnh mịch lại nên thơ. Trước năm 1954 nhà Thủy Tạ còn gọi là La Grenouillière.

Hồi ở Ðà Lạt tôi cũng có anh bạn thân, nhà văn Ðặng Ðình Tòng, có dáng dấp một triết gia với cặp kính cận, thường mặc bộ đồ veste, che cây dù đen dạo phố. Có lần anh về thăm ông bà nhạc ở Long Xuyên, bị ông nhạc nói với con gái: "Tao không gả mày cho thằng cha thầy bói đó."

Chúng tôi có cái thú uống cà phê vào những buổi chiều cuối tuần để nhìn thiên hạ dạo phố. Từng cặp, từng cặp tay trong tay, chầm chậm trên các nẻo đường. Sở thích chúng tôi là cà phê pha đậm, uống bằng tách sành (không dùng ly thủy tinh). Còn nước trà phải nấu bằng nước suối múc trên nguồn thác Datanla, hoặc không thì cũng là nước mưa. Không biết cái không khí se lạnh buổi sáng hay cái nắng hanh vàng buổi chiều thoi thóp trên cành cây làm chúng tôi thú vị như thế nào, nhưng thói quen ấy chúng tôi không bỏ trong nhiều năm. Cũng có thể chúng tôi ghiền cái không khí bạn bè của người đồng điệu.

Núi rừng cao nguyên chùng xuống. Mặt hồ gợn sóng lăn tăn. Ở phía xa hướng trường Yersin và Nha địa dư, trên mặt hồ có mấy cánh buồm sọc đỏ trắng, uể oải về bến. Trước hàng rào nhà chúng tôi là một hàng cây mimosa. Ðến mùa, hoa lấm tấm vàng, nở rực theo theo suốt con đường Nguyễn Tri Phương, Trần Hưng Ðạo, Pasteur. Hoa lưu ly thảo có người nói chính "forget-me-not," cánh mỏng như giọt sương. Còn hoa pensée hay hoa tư tưởng là hoa học trò, nở vào dịp gần bãi trường. Ai đã từng đi học mà không có lần mơ mộng, ép hoa pensée vào trang giấy học trò kỷ niệm thời cắp sách. Ngoài ra, còn có nhiều loại hoa lạ như uất kim hương, glaieul (lay ơn) hoa croquelic.

Ở Ðà Lạt nhiều năm, nhưng tôi cũng không ngờ các loại hoa mimosa, hồng nhung, và glaieul đã do chính bác sĩ Yersin du nhập vào nước ta. Ngoài các loại hoa, bác sĩ Yersin còn mang đến nhiều giống cây lạ như cà phê, canh ky na, ca cao. Bác sĩ Yersin cũng là ân nhân của Việt Nam và cả nhân loại khi tìm ra được thuốc chích ngừa bệnh dại, bệnh dịch hạch.

Người quý phái thích hoa hồng. Tuy gọi hoa hồng nhưng thực sự nó có đủ màu sắc. Hoa hồng phấn còn mệnh danh là Grace Monaco, hồng vàng gọi là Joséphine, hồng nhung gọi là Brigite Bardot. Hoa cúc cũng nhiều thứ, đủ màu sắc khác nhau. Có người trồng hoa ở Liên Khàng nói với chúng tôi có đến 19 loại hoa cúc cùng họ compositae như cúc vàng, cúc trắng, cúc Nhật Bản, cúc đồng tiền, cúc đại đóa, cúc hoàng anh, hoa thủy, cúc quỳ, thược dược, marguerite, souce...
Hồi xưa, mỗi năm hoa cúc nở rộ vào tháng 9, đó cũng là mùa chia ly vì lính thú từ giã gia đình lên đường ra biên cương giữ nước. Ðến tháng 9 năm sau lại được về. Vì lẽ đó, thời kỳ đi lính thú thời xưa gọi là "hoàng hoa," và rượu để tiễn người lên đường cũng là rượu hoàng hoa. Trần Ðình Lượng, quan nhà Nguyễn, trên đường đi sứ qua Pháp đã viết bài "Như Tây Nhựt Trình" trong đó có câu:

Ðường mây sớm giục sứ trời Paris muôn dặm, mấy lời hoàng hoa

Ngoài ra, Ðà Lạt còn là quê hương của hàng trăm loại lan rừng. Theo các sách nghiên cứu về hoa lan cho biết, có đến hàng ngàn loại khác nhau. Nhiều lần đi cắm trại ở các sườn núi cao hoặc vùng thac Datanla, chúng tôi gặp một loại hoa màu đỏ tím, đó là hoa đỗ quyên nở rực cả khu rừng. Ở trên đường từ lăng Cô Di Bạch mã có thác Ðỗ Quyên vì trên đường đi vào thác có hoa đỗ quyên rực rỡ. Ở trên đèo Ngoạn Mục về phía Xông Pha có lan cẩm bác, hoa màu vàng nhạt đốm nâu. Hoa kim châm có lá dài, cọng nhỏ, màu vàng, có thể trang hoàng hay chưng cá, xào thịt, pha chế nước sốt để ăn vịt quay rất ngon.

Ðà Lạt vào xuân là thiên đàng của các loài hoa nở rộ. Nào hồng lan, hoàng lan, đoản kiếm, thanh lan, hạc đĩnh, hoàng phi hạc, kim điệp, long tu, nhất điểm hồng, nhất điểm hoàng, ý hảo, tuyết ngọc, kim hài, thủy tiên... Qua mùa thu, các loại hoa như cẩm báo, tuyết nhung, bò cạp, mỹ dung, dạ lý hương, hoa đuôi cáo. Hồi đó, về đêm chúng tôi thường vô trường để trực, lúc đi ngang qua con đường từ nhà ga vô tới Chi Lăng, hoa dạ lý hương nở về đêm thơm ngào ngạt. Mùa hè là thời kỳ của hoa giả hạt, lọng tán.

Ðà Lạt cũng có nhiều trái cây nổi tiếng như mận Trại Hầm, su Trại Mát, Trạm Hành, đào lông...

Ðà Lạt cũng là quê hương của hồ và suối. Gần thì có hồ Xuân Hương, xa hơn có hồ Than Thở, hồ Mê Linh, hồ Ða Thiện, đập Suối Vàng. Mỗi hồ có một vẻ đẹp riêng. Nước chảy róc rách có thác Cam Ly về mùa khô, hoặc như một bức tường mỏng màu trắng đục từ trên cao phủ xuống như thác Prenn, hoặc ầm ầm từng bọt trắng xóa như thác Gougah. Hùng vĩ nhất có thác Pongour nằm sâu trong rừng, cách Ðà Lạt 60 km về phía nam. Nơi đây có nhiều phong lan mọc trên các ngọn cây cao. Thác Liên Khương nằm dọc theo phía trái Quốc Lộ 20, gần phi trường Liên Khương, dòng nước chảy tràn lan trên một địa thế gãy sụp. Phía dưới thác Prenn là một cây cầu nhìn qua bức màn nước trắng xóa từ trên cao chảy xuống như một tấm màn voan mỏng. Phía dưới thác cũng là vườn thú thành lập dưới thời Tổng Thống Ngô Ðình Diệm.

Hồ Than Thở nằm trên đường từ Chi Lăng dẫn vào Trường Võ bị. Có lẽ vì qua lại lắm lần nên tôi không còn thấy vẻ đẹp và thơ của hồ. Nơi đây cũng đã từng chứng kiến một mối tình thơ mộng ngang trái, đầy nước mắt. Hồ Xuân Hương hồi trước gọi là Grand Lac. Năm 1919 chánh phủ đắp đập ngăn chỗ cầu Ông Ðạo. Phía cuối sân cù là vườn Bích Câu, có hàng trăm loại hoa đài các hiếm quý.

Những du khách đến Ðà Lạt không ai không nghe nhắc tới Thung Lũng Tình Yêu nằm về phía hồ Ða Thiện. Ban đầu chỗ này có tên thung lũng Hòa Bình, tương truyền do chính vua Bảo Ðại đặt cho vào năm 1950. Thung Lũng Tình Yêu, địa danh thơ mộng là do các sinh viên Viện Ðại Học Ðà Lạt đặt ra, vì họ thường đưa người yêu ra đó làm chỗ hẹn hò. Tên này có từ năm 1972. Còn Rừng Ái Ân nằm phía cuối con đường lên viện Pasteur, từ phía Hoàng Cung nhìn qua, cũng là một nơi hò hẹn lý tưởng của những cặp nhân tình. Hồi trước, nơi đây vào những ngày cuối tuần thấp thoáng bóng tài tử giai nhân.

Ở đoạn cuối trong cuốn video Ðường Về Quê Hương 2 của đài truyền hình Vietnam Program phát hành đem đến cho khán giả hải ngoại một thời sống ở Ðà Lạt một nỗi buồn riêng khi nhìn thấy thành phố thân thương bây giờ tiều tụy. Các dinh thự, biệt thự loang lổ một màu xám xịt ảm đạm, đường phố dơ dáy, bẩn thỉu. Bây giờ Ðà Lạt như một cô gái xế chiều, cố tô son trét phấn, nhưng không dấu được vẻ mệt mỏi, già nua, như nuối tiếc thời vàng son xuân sắc của mình. Bây giờ cảnh sắc Ðà Lạt nhìn đâu cũng thấy ủ rũ u hoài. cũng vẫn cảnh trí thiên nhiên đó nhưng Ðà Lạt bây giờ bị chính bàn tay con người phá hoại không chút xót thương. Bao nhiêu công viên bị đào bới để trồng khoai, rau muống. Cuộc chiến tranh Việt Pháp kéo dài hơn mười năm nhưng Ðà Lạt vẫn không bị tàn phá. Cuộc chiến Quốc-Cộng chỉ gây hư hao nhẹ, nhưng chỉ năm sau vết tích chiến tranh bị xóa mờ. Rồi Ðà Lạt lại xây dựng thêm, tươi mát hơn ngày trước.

Trải qua 18 năm hòa bình, Ðà Lạt xuống dốc thê thảm. Nhiều kiến trúc già nua sụp đổ, thật là một sự nghịch lý khó hiểu. Chứng kiến cảnh Ðà Lạt tiều tụy, còm cõi ngày nay, những kỷ niệm êm đềm ngày xưa sống lại mãnh liệt trong lòng người viết bài. Nhìn hình ảnh trên cuốn phim, chúng tôi xúc động nghẹn ngào, không ngờ Ðà Lạt tàn tạ như vậy. Còn đâu mặt nước hồ Xuân Hương trong xanh, phẳng lặng, in bóng thuở thanh bình! Còn đâu những rặng thông già cao vút, tấu khúc nhạc rừng triền miên! Bây giờ hàng thông còn đó, u buồn cúi đầu lặng im như nuối tiếc những ngày tươi đẹp đã qua. Nhớ ngày trước Ðà Lạt như một thiếu nữ xuân thì đài các, từng làm cho biết bao thi nhân, văn sĩ, nhạc sĩ say đắm, để rồi khi chia tay lại bịn rịn. Bây giờ còn đâu những con đường hun hút ánh trăng với những cặp tình nhân âu yếm dìu nhau đi trong gió lạnh.
Theo onlydalat.com

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét