Thứ Tư, 6 tháng 10, 2010

Ai đã tìm ra Đà Lạt

NGUYỄN THÔNG HAY YERSIN, AI ÐÃ TÌM RA VỊ TRÍ ĐÀ LẠT?

 

Ðúng 100 năm trước, vào lúc 3 giờ chiều ngày 21 tháng 6 năm 1893, vừa từ một khu rừng rậm chui ra, bác sĩ Yersin và đoàn thám hiểm ngạc nhiên đến sững sờ trước một khung cảnh thiên nhiên kỳ thú mà họ chưa bao giờ nhìn thấy trước đó.
Trong nhật ký, bác sĩ Yersin đã ghi lại: "Một cao nguyên rộng lớn, không cây cối, đó đây thấp thoáng những trái đồi thấp, phủ một lớp cỏ xanh mịn màng."

Vào năm 1905, một du khách người Anh có dịp đật chân đến Ðà Lạt, đã ghi lại khung cảnh thành phố buổi sơ khai: "Nhiều đồi núi thấp nằm trên một diện tích rộng lớn, không cây cối, chỉ phủ một lớp cỏ ngắn. Tất cả cùng một cao độ, tựa hồ như những đợt sóng màu xanh nhấp nhô. Ở chính giữa, đỉnh Lâm Viên vượt lên như một hòn đảo lởm chởm. Ðăng Kia (Dankia) nằm dưới chân dãy núi ấy, ở phía bên kia cao nguyên. Cao nguyên thật yên tĩnh và mát mẻ, không dốc đứng, không một bụi rậm. Trong các thung lũng hẹp là những rừng thông nằm xen giữa những ngọn đồi."

Mới đây, tại quê nhà, trên tạp chí Du Lịch Lâm Ðồng, tác giả Nguyễn Diệp có viết bài Ai Là Người Đầu Tiên Thám Hiểm Và Tìm Ra Ðà Lạt? nêu lên ý kiến cho rằng chính Nguyễn Thông (1827-1884) trong khi làm chức Dinh Điền Sứ đóng ở Bình Thuận, đã có lần lên thăm vùng rừng núi cao nguyên Lâm Viên ngày nay. Ông tìm ra vị trí Ðà Lạt 25 năm trước khi bác sĩ Yersin đật chân tới.

Bài viết có vẻ là một phát kiến mới lạ, làm thỏa mãn tự ái người Việt, nhưng thiếu những bằng chứng xác thực. Dù cho sau này chúng ta có thể tìm được thêm những chứng cớ nào đáng tin cậy hơn nữa để kết luận Nguyễn Thông là người đã khám phá cao nguyên Lâm Viên, cũng không quan hệ đến sự ra đời của đô thị này. Cho dù Nguyễn Thông trong lúc làm Dinh Điền Sứ lo việc khẩn hoang có đến cao nguyên Lâm Viên thực sự, rồi sau đó báo cáo về triều đình nhà Nguyễn, thì việc thực hiện công cuộc di dân lên khai phá, đặt nền tảng cho một đô thị như Ðà Lạt hiện nay cũng không thể nào có được. Các khái niệm về thành phố nghỉ mát, trung tâm điều dưỡng, phải đợi người Pháp du nhập. Ngoài người Tây phương, không triều đại nào ở nước ta có thể thực hiện được.
Các thế kỷ trước khi chinh phục các quốc gia nhiệt đới làm thuộc địa, người Âu Châu thường gặp phải vấn đề khí hậu oi bức so với đất nước họ. Hàng năm, các công chức thuộc địa phải về chính quốc để nghỉ hè. Việc ấy rất tốn kém thì giờ và tiền bạc. Chính vì lẽ đó mà người Anh lập thành phố Darjeeling ở Ấn độ,người Mỹ lập Baguio ở Philippines, người Hòa Lan lập Bogor, rồi Thái mở rộng Chiang Mai, và Pháp ở Ðông Dương tìm kiếm những vị trí trên núi cao mát mẻ như Sapa, Tam Đảo, Bạch Mã, Bà Ná, và Ðà Lạt ở Việt nam ra đời.

Ðà Lạt được khai sinh dưới thời toàn Quyền Paul Doumer. Khi đọc báo cáo của bác sĩ Yersin về cao nguyên Lâm Viên, Doumer tỏ ra thích thú. Trong một chuyến du hành bằng ngựa từ Bắc vào Nam, toàn Quyền Paul Doumer đã yêu cầu bác sĩ Yersin dẫn mình đi quan sát địa điểm nói trên. Ðến nơi, thấy địa thế lý tưởng, khung cảnh mát mẻ, Doumer tỏ ra hài lòng. Về Hà Nội, Paul Doumer liền ký sắc lệnh thành lập đô thị nghỉ mát Ðà Lạt.

Một nhà nghiên cứu khác có mặt rất sớm ở Ðà Lạt, đã viết trong một hồi ký nhan đề Connaissance de Dalat như sau: "Ở nơi hồ nước, có dòng suối của bộ tộc Lat chảy qua, người ta gọi là Dalat."

Lúc đó thác Cam Ly (ở cuối đường Yersin trước năm 1975) là một dòng suối nhỏ, mùa mưa nước chảy khá mạnh. Tên Cam Ly ngày nay bắt nguồn từ tên người tù trưởng bộ lạc Koho. Ông ta tên là K'mly, sau khi chết, bộ lạc này dùng tên ông mà đật tên cho con suối đó mà họ xem như là quê hương của người Koho ở cao nguyên Lâm Viên. Về sau người Việt đọc trại thành Cam Ly. Trong một tấm bưu ảnh hồi thập niên 1950 chụp thác Cam Ly, phía dưới có hai câu thơ:

Cam Ly nước chảy về đâu? Cho ta nhắn gửi mối sầu cố hương.

Thác Cam Ly trở thành một thắng cảnh để du khách thăm viếng bắt đầu từ năm 1912. Nằm trên ngọn đồi lộng gió gần đó là lăng ông bà Nguyễn Hữu Hào, tức ông bà Quận Công Long Mỹ, nhạc phụ hoàng đế Bảo Ðại. Ông Hào là một người theo đạo Công Giáo, có quốc tịch Pháp, người quê ở Gò Công, có nhiều đồn điền ở Ðà Lạt, Cầu Ðất. Ông Hào là rể của ông Huyện Sĩ, thân phụ bà Nam Phương Hoàng Hậu, mất năm 1939.

Con đường nối liền cao nguyên Lâm Viên với đồng bằng Phan Rang hoàn tất năm 1899, chỉ dùng cho voi, ngựa chở đồ và người đi bộ. Năm 1912 ngôi chợ đầu tiên Ðà Lạt được xây cất bằng gỗ, ngay vị trí rạp hát Hòa Bình bây giờ. Năm 1936 chợ Hoà Bình mới với hình tháp chuông nhô lên một góc, được xây dựng lại. Ngôi chợ mới Ðà Lạt do kiến trúc sư Ngô Viết Thụ vẽ kiểu, xây dựng hồi năm 1958.

Khi thế chiến thứ nhất bùng nổ bên Âu Châu, con đường hàng hải qua lại bị gián đọan, nên các công sứ, tham biện, thống sứ ngưòi Pháp thường lên nghỉ hè trên Ðà Lạt. Năm 1923 toàn quyền Maurice Long giao cho kiến trúc sư Hébrard vẽ đồ án mở rộng thành phố, giữ lại bối cảnh sân cù nhìn lên đỉnh Lâm Viên, không cho xây dựng.

Con đường xe lửa Ðà Lạt - Tháp Chàm phải xây dựng trong nhiều năm, vì đèo Ngoạn Mục dốc đứng, cao 980 mét trên mặt biển. Do đó người Pháp phải thuê kỹ sư Thụy Điển là những chuyên viên làm đường sắt có răng cưa trên các triền núi cheo leo bên nước họ, qua xây dựng con đường rầy. Khởi công từ năm 1928, con đường phải chia làm nhiều đoạn, có răng cưa ở giữa cho xe leo dốc khỏi tuột, cuối cùng khánh thành vào năm 1933 cùng một lượt với nhà ga Ðà Lạt. Ðó là một kiến trúc độc đáo hoàn toàn kiểu Âu Châu màu đỏ, có những cửa kính hình vuông, xa trông như một tòa lâu đài. Ngày khánh thành đường xe lửa Ðà Lạt - Phan Rang, có mặt Toàn Quyền Pasquier và Khâm Sứ Trung kỳ Thibaudau. Từ đó Pháp chở nhiều vật liệu nặng cho việc xây dựng các biệt điện.

Cũng như nhiều thành phố khác, tới đâu Pháp cũng lo hưởng thụ các tiện nghi. Khu vực xây dựng đầu tiên gọi là "khu phố Tây" nằm trên đồi, thuộc khu vực rạp hát Ngọc Lan, chạy qua khách sạn Thủy Tiên, tới đường Phan Ðình Phùng, với nhiều nhà phố kiểu Tây phương, trên lầu có ban công nhìn xuống đường lộ để chiều chiều họ ra đó nhìn xuống đường phố.

Dinh Toàn Quyền, còn gọi là Biệt Điện Số 2, nằm trên một ngọn đồi gần ngã tư đường Nguyễn Tri Phương và Trần Hưng Ðạo, khởi công năm 1933 có 25 phòng, ba năm sau mới hoàn thành. Biệt Điện Quốc Trưởng dành riêng cho vua Bảo Ðại gọi là Dinh Số 3, nằm cuối con đường Huyền Trân Công Chúa. Từ lúc xây cất xong cho đến năm 1945, biệt điện được gọi là Hoàng Cung Ðà Lạt. Ðây cũng là chỗ để hoàng đế tổ chức lễ vạn thọ (sinh nhật), tiếp tân các toàn quyền, khâm sứ, và sau này là cao ủy Pháp.

Trong biệt điện chia ra nhiều phòng:

# Văn phòng Hoàng đế, có bức tượng hình người thật của nhà vua bằng thạch cao và một bức tượng khác nhỏ hơn, bằng vàng, của vua Khải Ðịnh. Sau năm 1975 tượng này đã bị Cộng Sản lấy mất.

# Trong phòng này cũng có ngọc tỉ, ấn tín. Phía trên lò sưởi, ngay giữa phòng là bức chân dung hoàng đế mặc triều phục, Hoàng Tử Bảo Long và Nam Phương Hoàng Hậu.

# Tầng lầu thứ hai dành riêng cho hoàng gia họp mặt. Phòng màu vàng dành cho Thái Tử Bảo Long. Phòng hình bán nguyệt dành cho hoàng hậu và các con, nơi cả gia đình họp mặt.
Ngoài ra, còn Dinh Số 1 nằm trên một ngọn đồi từ ngã ba Trại Hầm đi lên. Những biệt điện kể trên xây cất cách nay hơn nửa thế kỷ, nhiều chỗ hư mục nhưng không được tu bổ hoàn toàn.

Dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963), vợ chồng ông Ngô Ðình Nhu có xây một biệt thự nghỉ mát gọi là "biệt điện mùa hè" ở Ðà Lạt. So với các Dinh Số 2, Dinh Số 3, biệt điện này nhỏ hơn, nhưng là một công trình kiến trúc nghệ thuật, vật liệu mua từ ngoại quốc, trang bị tối tân hơn. Lần đầu tiên, một hồ tắm kiểu vua chúa Tây phương được du nhập dành cho cấp lãnh đạo thụ hưởng. Biệt điện xây trên một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng thơ mộng, và đồi ấy được đật tên là Châu Lâm (Jewel Forest).

Mùa hè năm 1964, khi chế độ Ngô Ðình Diệm sụp đổ, gia đình chúng tôi có ra thăm biệt điện này. Biệt điện được trang hoàng theo sở thích của từng người. Phần bà Nhu là hồ tắm bằng cẩm thạch, nước trong vắt, có máy làm nuớc nóng về mùa đông. Trong nhà, phòng ngủ, bếp nấu ăn đều trang bị những tiện nghi đắt tiên vì bà là một trưởng giả khó tánh. Phòng khách có đến năm lò sưởi. Tường, trần nhà, sàn nhà đều lót bằng những phiến gỗ tếch hình vuông, đánh bóng.

Khu vườn hoa là của ông Ngô Ðình Nhu, có trên một trăm loài hoa hiếm quý được mua từ ngoại quốc đem về. Mỗi lần ra thăm, Tổng Thống Ngô Ðình Diệm thường bước ra sân im lặng ngắm hoa, như theo đuổi một ý tưởng riêng. Biệt điện chỉ có độ 12 phòng nhưng phải xây dựng mất năm năm mới hoàn thành. Riêng chiếc cổng vào, phải xây lại đến lần thứ năm.

Cũng trong thập niên 1930, Pháp xây dựng nhiều dinh thự khác như tòa công sứ, dinh quản đạo (cho tỉnh trưởng người Việt), trường trung học Yersin, trường Couvent des Oiseaux, khách sạn Du Parc, nhà thờ chính tòa gần Ðà Lạt Hotel được xây dựng sớm hơn, nhưng mãi đến năm 1942 mới hoàn thành. Cây thánh giá trên nóc tháp chuông, cách mặt đất tới 47 mét, dáng dấp một giáo đường thời trung cổ bên Âu Châu. Khách sạn lớn nhất là Ðà Lạt Hotel nằm cùng khu vực với nhà thờ, trên đường Yersin, được xây dựng sớm nhất, từ năm 1907, có 65 phòng. Sau năm 1945 khách sạn ấy bị hỏa hoạn làm hư hại một phần.

Tới đầu thập niên, Ðà Lạt trở thành một đô thị tân tiến với các dinh thự to lớn, hơn 800 biệt thự, nhà nghỉ của tư nhân, các gia đình quý tộc, giàu có khắp nơi trong nước. Mỗi biệt thự kiến trúc khác nhau nhưng đều giống nhau ở chỗ có sân cỏ, vườn hoa, và chỗ để xe hơi. Thuở đó, người Pháp hãnh diện coi Ðà Lạt như "La Petite Paris" (tiểu Paris).

Năm 1949 Quốc Trưởng Bảo Ðại từ Hồng Kông về chấp chánh. Ðà Lạt là nơi quốc trưởng cư ngụ nên trở thành thủ đô hành chánh, các chính khách rộn rịp lên xuống yết kiến ngài. Lúc đó, Ðà Lạt cũng còn là một địa điểm săn bắn hấp dẫn. Chỉ cách Ðà Lạt chừng hai giờ lái xe, chúng ta sẽ lạc vào những khu rừng có đầy nai, mễn, heo rừng, chim phụng hoàng, gà rừng, gấu và cọp nữa. Năm 1972 có lần chúng tôi gặp bốn người Thượng khiêng một con cọp vừa mới bẫy được, đem ra chợ Ðà Lạt bán. Món thịt nai gần như ngày nào cũng có, nhất là khi trời bắt đầu mưa cho đến tháng 11 hàng năm.

Theo thời gian, chế độ Hoàng Triều Cương thổ bị bãi bỏ, Ðà Lạt thu hút thêm nhiều người Việt từ ba miền lên lập nghiệp. Vì có khí hậu miền ôn đới nên Ðà Lạt là nơi thích hợp cho các loại hoa và rau cải, trái cây xứ lạnh. Hồi đầu thập niên, người Pháp muốn mở rộng nghề trồng rau cải và trồng hoa để phục vụ nhu cầu của họ, nên cho phép một số người có kinh nghiệm trồng rau lên Ðà Lạt lập nghiệp. Theo lệnh Pháp, Tổng Đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu tuyển mộ mấy mươi gia đình từ các làng chuyên canh rau cải, trồng hoa ở Ngọc Hà, Nghi Tam, Quang Ba, Tây Từ... lên Ðà Lạt, được cấp đất trồng hoa. Lớp người này lập ra ấp Hà Ðông để tưởng nhớ quê hương của họ. Ấp Nghệ Tĩnh do Phạm Khắc Hoè khi làm quản đạo Ðà Lạt lập ra năm 1942, cũng tập họp những người phát xuất từ hai tỉnh đó.

Dưới thời Ðệ nhất Cộng hòa, chính phủ Ngô Ðình Diệm cho thiết lập nhiều cơ sở văn hoá tại Ðà Lạt. Viện Ðại Học Ðà Lạt thành hình năm 1957, xuất phát từ Chủng Viện Công Giáo thuộc giám mục địa phận Huế cai quản. Viện Ðại Học Ðà Lạt ra đời với sự đỡ đầu của Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục và sự giúp đỡ của Hồng Y Spellman ở New York, phát triển liên tục cho đến năm 1975.

Về tôn giáo, một trong các ngôi chùa cổ nhất là chùa Linh Phong trên đường đi Trại Hầm, chùa Linh Sơn, chùa Thiên Vương, chùa Sư Nữ. Nhà thờ Domain là nơi tu hành của các bà sơ, chuyên làm bánh kẹo, trồng hoa để bán. Vợ của Toàn Quyền Ðông Dương Jean Decoux tên Suzanne Humbert là bạn của Hoàng Hậu Nam Phương, là người đóng góp nhiều tiền bạc cho nhà thờ này. Bà bị tai nạn xe hơi trên đường Ðà Lạt nhân một chuyến lên chơi với bà Nam Phương. Thi hài được chôn phía sau nhà thờ.

Nói đến chùa Linh Sơn Ðà Lạt, người ta nhớ đến một thầy trụ trì từ năm 1945. Thầy là người cha Nhật mẹ Việt, sinh năm 1926. Khi Nhật vào Ðông dương, thầy bị bắt đi làm thông ngôn một thời gian. Năm 1951 thầy tốt nghiệp trung học Yersin. Trong thời gian trụ trì ở chùa Linh Sơn, thầy vẫn cầu học, dịch kinh sách, và ghi danh theo học ở Viện Ðại Học Ðà Lạt, phân khoa văn chương và triết học. sau đó thầy chuyên về môn văn chương Anh Mỹ, tốt nghiệp cử nhân với đề tài tiểu luận "William Faulkner" vào năm 1975.

Ngoài ra, ở Ðà Lạt còn có Trung Tâm Nguyên Tử Lực do chương trình "Nguyên Tử Phụng Sự Hòa Bình" của Mỹ viện trợ.Trung tâm này sử dụng lò phản ứng nguyên tử Triga Mark II do Hoa kỳ chế tạo, áp dụng chất phóng xạ đồng vị trong nông nghiệp. Trung tâm được khánh thành dưới sự chủ tọa của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm trước sự hiện diên của đại sứ Henry Cabot Lodge. Ngoài ra, hai công trình quân sự tốn kém khác nhưng có tính cách văn hóa hơn là trường Võ Bị Quốc Gia Việt nam, nằm trên một ngọn đồi cao, kiến trúc tối tân, gồm hàng chục dãy nhà lầu ba, làm cư xá cho sinh viên, khu văn hoá, bộ chỉ huy, nhà thí nghiệm nặng, để phục vụ chương trình giáo dục bốn năm cho các sinh viên sĩ quan hiện dịch. Khi tốt nghiệp, ngoài bằng cấp quân sự, các sinh viên còn được cấp phát văn bằng cử nhân khoa học ứng dụng. Kế đến là Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị, Trường Chỉ Huy Tham Mưu, cung cấp kiến thức chuyên nghiệp về quân sự cho các sĩ quan.
Theo OnlyDalat

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét